RÈN ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2 -PHAN THỊ KIM TUYẾN

  1. PHẦN NỘI DUNG
  2. Nội dung dạy đọc trong chương trình dạy Tập đọc lớp 2:
  3. Mục tiêu của việc rèn đọc trong giờ Tập đọc:
  4. Tập đọc là gì ?

Phân môn Tập đọc ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực này được thể hiện thống nhất trong 4 hoạt động tương ứng với chúng là 4 chức năng: nghe, nói, đọc, viết. Như vậy, đọc là một hoạt động ngôn ngữ là quá trình chuyển dạng thức viết sang lới nói có âm thanh và thông hiểu chúng. Đọc không chỉ là công việc giải quyết một bộ mã ( gồm 2 phần) chữ viết và âm thanh nghĩa là nó không phải chỉ là sự đánh vần  lên thành tiếng theo đúng như kí hiệu chữ viết, mà còn là quá trình nhận thức, để có kĩ năng thông hiểu những gì đọc được. Trên thực tế nhiều khi người ta đã không hiểu khái niệm đọc một cách đầy đủ. Nhiều chỗ, người ta chỉ nói đến đọc như nói việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyền từ âm sang nghĩa đã không được chú ý đúng mực.

b.Ý nghĩa của việc đọc:

Phần lớn những tri thức, kinh nghiệm của đời sống những thành tựu văn hoá khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu được nền văn minh của loài người. Không thể sống một cuộc sống bình thường, không thể làm chủ trong xã hội hiện đại. Ngược lại, biết đọc con người có thể dễ dàng tiếp thu nền văn minh của nhân loại. Vì thế, học có những hiểu biết, có khả năng chế ngự một phương tiện văn học cơ bản giúp cho họ giao tiếp với thế giới bên trong của người khác, đặc biệt khi đọc bài( Tập đọc, học thuộc lòng). Con người không chỉ thức tỉnh về nhận thức, mà còn rung động tình cảm nảy nở những ước mơ cao đẹp. Đọc khơi dậy tiềm lực hành động, sức sáng tạo, cũng như  được bồi dưỡng tâm hồn. Không biết đọc, con người sẽ không có điều kiện giáo dục mà xã hội dành cho họ. Họ chỉ hình thành một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời buổi bùng nổ thông tin, biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp con người ta sử dụng các nguồn thông tin. Đọc chính là học nữa, học mãi đọc để tự học, học cả đời.

Chính vì vậy Tập đọc là một phân môn có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Nó trở thành một đòi hỏi cơ bản, đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc sau đó đọc để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong giao tiếp và học tập nó cũng là một công cụ để học các môn học khác nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Đồng thời nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học. Tập đọc là khả năng không thể thiếu của con người trong thời đại văn minh. Biết đọc sẽ giúp các em hiểu biết nhiều hơn, hướng các em tới cái thiện, cái đẹp, dạy cho học sinh biết cách suy nghĩ lô gíc, tư duy có hình ảnh.

Như vậy việc dạy đọc có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì nó bao gồm nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.

  1. c. Ý nghĩa của việc rèn kĩ năng đọc qua phân môn Tập đọc:

Ở Tiểu học phân môn Tập đọc có một vị trí rất quan trọng, dạy tốt phân môn này là đáp ứng một trong bốn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Đối với học sinh lớp 2, việc rèn đọc vô cùng quan trọng nó giúp các em hiểu đúng nội dung văn bản. Giáo dục các em lòng yêu sách trở thành một thứ không thể thiếu được trong nhà trường và gia đình. Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ và tư duy cho các em, giáo dục tư tưởng tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ cho các em.

Đọc là giáo dục lòng ham đọc sách hình thành phong cách và thói quen làm việc với sách của học sinh. Nói cách khác thông qua việc dạy đọc phải giúp cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi cho các em trong cuộc đời, phải làm cho các em thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.

Ngoài việc dạy đọc còn có nhiệm vụ khác như:

–  Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, về đời sống và kiến thức về văn học cho học sinh.

–  Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh.

–  Giáo dục tư tưởng  đạo đức, tình cảm thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.

–  Giúp học sinh biết đọc để giao tiếp và giải trí.

  1. Nội dung phân môn Tập đọc lớp 2 :
  2. Nội dung dạy Tập đọc lớp 2.

Quá  trình tìm hiểu nội dung sách giáo khoa Tiếng Việt 2, tôi nhận thấy hầu hết các bài tập đọc đều là tác phẩm hoặc đoạn trích của những văn bản có giá trị nghệ thuật. Mỗi bài đã được các nhà viết sách lựa chọn nhằm cung cấp cho học sinh một kiến thức nhất định. Về nội dung của các bài Tập đọc lớp 2 xoay quanh 6 chủ đề lớn:

Nhà trường: 8 tuần – 24 tiết

Gia đình: 6 tuần -18 tiết

Bạn trong nhà: 2 tuần – 6 tiết

Thiên nhiên đất nước gồm 7 đơn vị: Bốn mùa, Chim chóc, Muông thú, Sông biển, Cây cối, Bác Hồ, Nhân dân, mỗi chủ điểm 2 tuần riêng chủ điểm Nhân dân 3 tuần.

Trong số các bài văn xuôi và thơ được đưa vào trong chương trình khá đồng đều. Văn xuôi 48,4%; thơ 51,6%. Nội dung các bài văn xuôi ngắn, dễ hiểu, dễ đọc và gần gũi với cuộc sống xung quanh các em. Văn xuôi gồm nhiều loại, nhiều dạng bài như: miêu tả, kể, vừa kể vừa tả hoặc có cả truyện ngắn. Thể loại thơ cũng rất phong phú chủ yếu là thơ vần, thơ lục bát, thơ 4 chữ, 5 chữ. Trong đó: Thơ lục bát chiếm 39,6%; Thơ 5 chữ chiếm 23% còn lại là thơ tự do và Ca dao. Những câu truyện kể, những bài văn xuôi đều hướng tới mục đích giáo dục : Tính trung thực đức vị tha, tình yêu lao động, tình đoàn kết, tương trợ bảo vệ của công, đưa dần các em đến với nhận thức về quan hệ giữa các em với nhà trường , thầy cô, bạn bè, ông bà, cha mẹ,rộng ra là sông núi, trời biển, Tổ quốc , nhân dân, lãnh tụ, từ đó hình thành dần trong các em ý thức cá nhân giữa cộng đồng, ý thức công dân trong lòng thiên nhiên, dân tộc. Đặc biệt, mạch bài cổ tích, ngụ ngôn, truyện vui trong và ngoài nước được đưa vào dạy khá hấp dẫn, dí dỏm, sinh động, dễ hiểu, dễ nhớ đối với các em. Đó là những bài học về sự tích các loài ( Sự tích cây vú sữa, Cò và Vạc );Hiện tượng thiên nhiên ( Sơn Tinh, Thuỷ Tinh ); Nguồn gốc các dân tộc anh em ( truyện Quả bầu ) ; Bài học về tính kiên trì ( Có công mài sắt, có ngày nên kim ); Phê bình sự lười biếng ( Há miệng chờ sung ); Ca ngợi lao động  ( kho báu ) ; Trí thông minh ( Một trí khôn hơn trăm trí khôn, quả tim khỉ ); Lòng biết ơn ( Tìm ngọc ) ; Sự gian ác phải trả giá ( Bác sĩ sói ) ; Nhìn người giao việc ( Sư tử xuất quân ); …Những bài trên phần lớn được rút ra từ kho tàng văn học dân gian hoặc từ tác phẩm nổi tiếng của các tác giả lớn trên thế giới. Sang mảng thơ và văn vần bài đồng dao: ( Vè chim ) rất hấp dẫn, làm bật ra rất nhanh tính nết của mỗi loài, vừa hợp với sức đọc ( do câu ngắn ) vừa mang nhịp học mà vui, vui mà học. Những bài Tập đọc đó rất gần gũi, gắn bó với cuộc sống xung quanh các em. Tạo cho các em có một niềm vui, hứng thú đọc và tìm hiểu bài.

Trong các bài Tập đọc việc sử dụng các biện pháp tu từ So sánh, Nhân hoá ngắn gọn, dễ hiểu tạo nên hình ảnh ngôn ngữ. Vì vậy nhờ sự phân loại các dạng bài Tập đọc đã góp phần giúp người giáo viên xác định được đặc trưng riêng của từng giọng điệu để hướng dẫn học sinh đọc tốt, đọc hay và nâng cao chất lượng cảm thụ cho học sinh bằng chính giọng đọc.

Về thể thơ trữ tình chiếm vị trí đa số. Các bài thơ được trích dẫn từ hình ảnh nhạc điệu quen thuộc, thiên về giáo dục tình cảm, đạo đức, yêu quê hương đất nước, gia đình, trường học, làng xóm. Giúp học sinh nâng cao kĩ năng cảm xúc thẩm mĩ, kích thích các em đọc đúng, đọc hay để khám phá cái hay, cái đẹp của văn chương.

  1. Phương pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2:

Trong thực tế mỗi bài Tập đọc đều có hai phần lớn:  Luyện đọc và tìm hiểu nội dung. Hai phần này có thể tiến hành cùng mọt lúc hoặc đan xen vào nhau hoặc cũng có thể dạy tách theo hai phần. Tuỳ theo từng bài mà giáo viên lựa chọn, dù dạy như thế nào thì hai phần này luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau, cần tìm hiểu bài giúp học sinh hiểu kĩ nội dung, nghệ thuật của bài từ đó các em đọc đúng, biết đọc ngắt giọng, nhấn giọng để thể hiện nội dung của bài, thể hiện những hiểu biết của mình xung quanh bài đọc. Vì vậy việc rèn đọc trong bài Tập đọc rất quan trọng, góp phần làm giàu vốn kiến thức ngôn ngữ vào đời sống và kiến thức văn học cho học sinh. Từ đó góp phần hình thành ở các em những phẩm chất, nhân cách tốt.

Trong quá trình tìm hiểu bài, cho học sinh phải biết tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của từng đoạn. Từ đó mới hiểu được nội dung của từng bài và tìm ra cách đọc tốt nhất( đọc thầm, đọc thành tiếng) . Vì vậy người giáo viên  phải từng bước hình thành cho học sinh cách đọc. Sau khi chia bài thành các đoạn giáo viên tiếp tục tổ chức, điều khiển, hướng dẫn tìm hiểu nội dung của từng đoạn bằng phương pháp như: Vấn đáp, trực quan, giảng giải và có thể sử dụng các loại kĩ thuật khác trong giờ dạy như giải nghĩa từ. Còn với học sinh mỗi đoạn, mỗi bài là một chủ thể luyện tập, các em phải được suy nghĩ, được nói lên ý nghĩa đó được luyện trong bài.

Dạy Tập đọc cần dạy sát đối tượng, sát trình độ để đảm bào tính vừa sức.

Những phương pháp đã được áp dụng cho phân môn Tập đọc:

 * Phương pháp trực quan :

Phương pháp này phù hợp với tư duy, tâm lý, lứa tuổi học sinh. Trực quan bằng giọng đọc của giáo viên. Giọng đọc mẫu của giáo viên là hình thức trực quan sinh động và có hiệu quả cao, có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc. Mỗi bài văn, bài thơ viết ở thể loại khác nhau. Có bài giọng đọc náo nức, phấn khởi; có bài giọng đọc trang nghiêm trầm lắng; có bài giọng đọc ân cần khuyên nhủ nghĩa là mỗi bài một vẻ. Do đó giáo viên cần đọc đúng thể loại ngữ liệu, tránh đọc đều đều, không cảm xúc kết hợp biểu hiện tình cảm, qua ánh mắt, nét mặt, nụ cười. Khi giới thiệu bài nên dùng  trực quan bằng tranh ảnh, vật thật giúp các em háo hức tìm hiểu và cảm thụ bài đọc. Trực quan bằng một đoạn văn chép sẵn được ngắt theo cụm từ  để các em đọc ngắt hơi, nghỉ hơi đúng chỗ. Có thể trực quan bằng cách nghe giọng đọc hay của học sinh trong lớp.

 * Phương pháp đàm thoại:

Phương pháp này phù hợp với tâm lí trẻ nhỏ . Các em thích hoạt động ( hoạt động lời nói) giáo viên đưa ra một hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài để học sinh trả lời tìm ra cái hay của tác phẩm. Muốn đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc diễn cảm trước tiên phải đọc tốt( đọc lưu loát, rõ ràng) và cảm thụ tốt bài văn bằng những câu hỏi đàm thoại để hiểu phương pháp luyện đọc. Phương pháp này đựợc dùng chủ yếu trong giờ Tập đọc dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh luyện đọc nhiều lần.

Phương pháp dùng phiếu bài tập có thể thấy ngay lỗi mà học sinh thường mắc qua việc yêu cầu học sinh đọc đúng một đoạn văn, thơ ngắn với những âm thanh, vần dễ lẫn.

Tóm lại để giờ học đạt hiệu quả cao thì người giáo viên phải sử dụng linh hoạt các phương pháp trên một cách hợp lý sao cho giờ học không bị ngắt quãng, gián đoạn. Giáo viên chỉ đóng vai trò là người tổ chứ hướng dẫn các em tìm ra cách đọc, luôn lấy học sinh làm trung tâm.

Yêu cầu về kiến thức kĩ năng học sinh cần đạt được sau khi học phân môn Tập đọc:

– Tập đọc là một môn học mang tính chất tổng hợp, vì ngoài nhiệm vụ dạy đọc nó còn có nhiệm vụ trau rồi kiến thức về Tiếng Việt. Cho nên sau khi học phân môn Tập đọc.-  Yêu cầu học sinh cần đạt được là:

– Rèn kĩ năng đọc ( đọc đúng, đọc diễn cảm)

– Biết ngắt giọng, nhấn giọng.

– Cảm thụ tốt bài văn.

Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 yêu cầu học sinh phải đọc rõ ràng, rành mạch. Không đọc lí nhí, giọng quá nhỏ, không dừng lâu quá để đánh vần, nghỉ hơi ở dấu chấm, dấu phẩy, chỗ cần tách ý. Biết đọc liền các tiếng trong từ ghép, từ láy hoặc cụm từ cố định. Ngoài ra còn biết đọc đúng giọng câu kể, câu hỏi, câu cảm biết phân biệt lời dẫn chuyện với lời đối thoại. Dù đọc ở mức độ nào cũng đều yêu cầu phát âm đúng. Khi đọc thầm yêu cầu học sinh phải luyện thành thói quen để tạo được hứng thú khi đọc sách báo.

Cảm thụ bài đọc đối với học sinh lớp 2 không yêu cầu khai thác sâu, kĩ bài văn bài thơ mà học sinh chỉ cần nắm được ý để trả lời các câu hỏi.

  1. Thực trạng của việc dạy học phân môn Tập đọc lớp 2.

Hiện nay với sự phát triển ngày càng càng cao, đặc biệt là sự đổi mới đáng đề cập đến đó là vấn đề đổi mới về chương trình và sách giáo khoa lớp 1, 2, 3, 4, 5 thì vấn đề giáo dục phải ngày càng được phát triển, đổi mới không ngừng. Do vậy, đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng học hỏi để theo kịp sự phát triển và đổi mới của xã hội.  Phần nhiều giáo viên là những người ham học hỏi, tích cực tìm ra phương pháp dạy học mới để đạt được kết quả cao nhất. Song do điều kiện, do còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ nên chưa tiếp cận được hết những phương pháp dạy học mới. Một số giáo viên còn trung thành và có thói quen dạy theo phương pháp cũ. Khi tiếp cận với phương pháp dạy học mới giáo viên thường quan niệm: trong các tiết dạy phải có hệ thống câu hỏi và buộc học sinh trả lời các câu hỏi ấy. Như vậy yêu cầu học sinh dùng một phương pháp thực hành nhiều cho nhớ và giáo viên khi dạy ít quan tâm đến đặc điểm tâm lí của các em học sinh tiểu học đó là “ Học mà chơi, chơi mà học”,  các em khi học  rất dễ nhớ nhưng cũng rất nhanh quên.

Thực trạng dạy học Tập đọc của các trường Tiểu học :

*Về phía giáo viên:

Qua điều tra chúng tôi thấy rằng giáo viên chưa hiểu khái niệm “ Đọc” một cách đầy đủ, khi dạy chưa bám sát vào mục đích, yêu cầu của từng bài. Do vậy họ chưa đạt được mục tiêu của một giờ tập đọc. Có những người cho rằng dạy tập đọc là chủ yếu dạy cho các em đọc to, rõ ràng là được. Phương pháp dạy tập đọc của giáo viên có dạy theo đoạn, có các kiểu câu hỏi khác nhau song hình thức luyện đọc chỉ đơn thuần là đọc. Việc sử dụng đò dùng còn hạn chế , giáo viên còn dạy “chay” chưa coi những phương tiện trực quan là cần thiết trong việc luyện đọc.Vì thế việc đọc đúng, đọc hay của học sinh còn hạn chế.

*Về phía học sinh:

Qua khảo sát, điều tra tôi thấy kĩ năng đọc đúng, hay của học sinh còn yếu. Học sinh học bài một cách thụ động, các em học một cách bắt buộc, chỉ có những học sinh khá, giỏi mới cố gắng đọc cho hay song vẫn chưa đạt yêu cầu. Khi đọc một số văn bản các em không ngắt nghỉ hơi đúng chỗ nên các em không nắm được điều gì là cốt yếu trong văn bản. điều này sẽ gây khó khăn trong việc hình thành kĩ năng giao tiếp.

  1. Khảo sát qui trình dạy học môn Tập đọc của học sinh lớp 2:
  2. Phạm vi khảo sát :

Trường Tiểu học An Tảo là một đơn vị giáo dục ảnh hưởng tiếng địa phương , học sinh phát âm sai rất nhiều, chủ yếu là phát âm sai phụ âm đầu l/n , s/x nguyên nhân là do học sinh chưa phân biệt được cách phát âm và phát âm sai do theo thói quen địa phương .Toàn trường có hơn 600 học sinh chia làm 19 lớp. Nhà trường có 42 cán bộ , công nhân viên. Vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy và học được nhà trường đặc biệt quan tâm. Nhiều môn học đã đưa ra bàn bạc và làm chuyên đề như: Chuyên đề Toán, chuyên đề Tự nhiên và xã hội, chuyên đề Tập làm văn, chuyên đề Luyện từ và câu, chuyên đề Tập đọc Với mong muốn tìm ra được phương pháp dạy học tốt nhất. Song với phân môn Tập đọc, thực tế trong quá trình dạy và học thì cả thầy và trò vẫn còn hạn chế ( đặc biệt là việc đọc đúng) chưa đạt yêu cầu. Từ việc đọc đúng còn hạn chế nên việc đọc hay, đọc hiểu của học sinh chất lượng còn thấp.

  1. Điều tra khảo sát khối lớp 2( cụ thể lớp 2A3).

Lớp 2A3 mà tôi điều tra  nghiên cứu gồm có 25 học sinh, trong đó có 9 nữ,  . Học sinh đi học đúng độ tuổi là 100%. Nhưng trình độ nhận thức không đồng đều. Vào đầu năm học nhà trường khảo sát thấy việc đọc của các em chưa tốt, mức độ đọc còn chậm và chưa biết cách đọc đúng, đọc ngắt giọng, nhấn giọng.

  1. Dự giờ của giáo viên .

Tôi đã dự giờ của đồng chí Mai Thị Hậu chủ nhiệm lớp 2A5 cùng khối lớp với tôi mục đích tìm hiểu phương pháp giảng dạy, các bước lên lớp, phong trào luyện đọc của học sinh. Qua dự giờ tôi thấy:

– Trong giờ học đồng chí chỉ dạy cho học sinh biết đọc chưa thực sự coi trọng việc hình thành kĩ năng đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc hay, đọc diễn cảm cho trẻ.

– Việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học của giáo viên còn có những hạn chế. Cụ thể giáo viên còn lúng túng khi áp dụng các phương pháp dạy học mới, sự phối kết hợp còn thiếu linh hoạt.

Chính vì vậy, kết quả của việc luyện đọc sau giờ Tập đọc cho thấy kết quả chưa cao. Học sinh chưa biết cách đọc ngắt giọng, nhấn giọng và tiến tới đọc được diễn cảm.

  1. Khảo sát kĩ năng đọc của học sinh lớp 2 :

      Sau khi dạy lớp 2A3 bài : “Mùa xuân đến”- Tiếng Việt 2 tập 2. Tôi đã xây dựng phiếu trắc nghiệm về những lỗi học sinh hay mắc như sau:

Phiếu điều tra học tập

Họ và tên:

Lớp         : 2A3

Bài đọc: Mùa xuân đến

  1. Câu hỏi:
  2. Em có thích học Tập đọc không?
  3. Đọc đúng giúp em những gì?
  4. Em thích đoc bài nào( văn xuôi, thơ..) ? Vì sao?
  5. Bài tập:
  6. Em hãy đọc các từ sau:

Xoa đầu, chim sâu, say mê, xâu cá

Trò chuyện, chung sức, cây tre

Lao động, nàng tiên, làng bản, lịch sự

  1. Em hãy ngắt giọng, nhấn giọng và đọc diễn cảm đoạn văn sau:

Chú chim sâu vui cùng vườn cây và các loài chim bạn. Nhưng trong trí nhớ thơ ngây của chú còn mãi hình ảnh một cánh hoa mận trắng, biết nở cuối đông để báo trước mùa xuân tới.

Sau khi học sinh làm bài vào phiếu điều tra tôi đã thu lại chấm, tổng hợp kết quả cụ thể trước thực nghiệm như sau:

Lớp
số
Luyện phát âm Ngắt giọng Nhấn giọng Đọc diễn cảm
Đúng Chưa đúng Đúng Chư­a đúng Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng
SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL %
2A3 25 15 60 10 40 15 60 10 40 13 52 12 48 6 24 19 76

 

– Một kết quả trắc nghiệm cho thấy số học sinh mắc lỗi phát âm, đọc ngắt giọng, nhấn giọng và đọc diễn cảm quá lớn. Tôi đã trực tiếp trao đổi với cô giáo Hậu về kết quả trên đồng thời đề ra biện pháp của mình áp dụng ở lớp 2A3. Cô giáo hoàn toàn nhất trí và ủng hộ tôi trong việc dạy thực nghiệm và tiếp tục nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến tình trạng đọc kém của học sinh.

a.Hạn chế về tài liệu dạy Tập đọc: Hệ thống văn bản chưa mẫu mực, chưa có nhiều lợi thế để dạy đọc đúng, đọc ngắt giọng, nhấn giọng và đọc diễn cảm.

   b.Nội dung khảo sát hạn chế hướng dẫn tìm hiểu bài là nơi thể hiện khá rõ hướng khai thác nội dung và phương pháp dạy học ở trên lớp nhưng vẫn tồn tại những nhược điểm sau:

– Câu hỏi và  bài tập  chỉ yêu cầu học sinh một phương thức hành động duy nhất : dùng lời. Điều này có nhiều hạn chế, số lượng học sinh làm việc trên lớp rất ít bởi một ngưới nói phải có người nghe, không thể học sinh cùng nói, không tích cực hoá được hoạt động học của học sinh. Đây là nguyên nhân chính làm cho số lương học sinh   hoạt động tích cực trong giờ Tập đọc  ít hơn giờ Toán.

– Các câu hỏi và bài tập trong sách giáo khoa chủ yếu yêu cầu học sinh tái hiện lại các chi tiết của bài ít câu hỏi học sinh suy luận. Nhiều câu hỏi bài tập mang tính áp đặt vì chúng ta nêu ra các bước trước cách hiểu học sinh chỉ còn là người nêu ra cho những nhận xét này.

  1. Nguyên nhân chủ quan do chính các  em đem lại tinh thần, thái độ học tập của các em còn yếu , do đặc điểm tâm lí của trẻ 7- 8 tuổi các em rất hiếu động, khả năng tập chung chưa cao. Trong khi đó để cho học sinh đọc đúng cách ngắt giọng, nhấn giọng, diễn cảm đòi hỏi nhiều ở tính kiên trì, nhẫn lại chịu khó . Nguyên nhân không nhỏ nữa là một số em học sinh về nhà do bố mẹ chưa thực sự quan tâm. Do trình độ giáo viên chưa đồng đều nên mỗi giáo viên lại có cách hiểu và phân loại khác nhau còn thiếu chính xác nên dẫn đến việc nhận thức giọng đọc các bài khác nhau. Ngoài ra giáo viên còn hạn chế bởi khả năng tiếp thu phương pháp dạy học mới rất khó khăn. Họ chỉ quen dạy theo phương pháp cũ. Đồ dùng dạy học phục vụ cho bài giảng còn thiếu . Khi học sinh đọc bài giáo viên chưa chú ý đến chất lượng mà chỉ chú ý đến số lượng đọc , ít hướng dẫn cụ thể học sinh khi các em đọc sai. Bên cạnh đó giáo viên còn chưa chú ý đọc cho học sinh trong các giờ học, môn học khác. Xuất phát từ thực tiễn trên , tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về khả năng đọc cho học sinh lớp 2 như sau.

III. Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2

  1. Một số giải pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2

Trên cơ sở lí luận của việc dạy học nói chung và dạy môn Tập đọc nói riêng. Tôi nhận thấy thực tiễn dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu dạy học ở tiểu học. Để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm có trong thực tế, tôi xin đưa ra một số biện pháp mà tôi áp dụng có hiệu quả của việc dạy học (đọc thầm, đọc thành tiếng).

  1. Luyện phát âm:

Muốn học sinh đọc đúng, đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc diễn cảm người giáo viên phải giúp các em phát âm chuẩn , đọc đúng loại câu, đúng ngữ điệu câu. Giúp các em tự hiểu nội dung bài, xác định đúng loại câu, ngữ điệu, giúp các em phải biết đặt mình vào vị trí của nhân vật, của tác giả. Ngoài ra còn phải biết cách tổ chức một giờ học nhẹ nhàng, sinh động. Xây dựng phong trào thi đua đọc đúng, đọc hay , ngoài ra kết hợp với việc rèn đọc trong tất cả các môn học khác giúp các em tích cực hoá việc học môn Tiếng Việt.Như chúng ta đã biết cả giáo viên, học sinh tỉnh Hưng Yên nói chung và giáo viên tiểu học nói riêng khi nói và đọc đều mắc một sai lầm là đọc ngọng giữa phụ âm đầu là l- n hoặc với những tiếng có phụ âm quặt lưỡi như s – x; r-d; ch – tr đều đọc cố nhấn để phát âm cho rõ nên làm mất cái hay, cái tự nhiên khi đọc. Điều này làm cho các em cảm thấy xấu hổ mất tự tin khi đọc, hạn chế việc đọc của các em mất đi sự hứng thú với môn học này. Mà quy trình dạy tập đọc theo hướng đổi mới của lớp 2 như chúng ta đều nắm được gồm các bước chính sau:

+ Luyện đọc đúng

+ Tìm hiểu nội dung

+ Luyện đọc nâng cao ( rèn đọc hay, dọc diễn cảm)

Chính vì vậy khi dạy Tập đọc chúng ta phải chú ý quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp mình và khi dạy học chúng ta phải phụ thuộc vào trình độ của học sinh, phải hướng dẫn cho các em đọc đúng, phát âm chuẩn. Nếu học sinh đọc chưa tốt, đọc còn ngọng, sai và ấp úng thì giáo viên phải dừng lại ở bước 1 là luyện đọc đúng. Nếu học sinh đọc đúng, đọc tốt rồi thì giáo viên dành cho luyện đọc nâng cao ( bước 3). Động viên các em và giao nhiệm vụ cho cả lớp cùng giúp bạn bằng cách không trêu ghẹo, đùa mà tạo cơ hội cho bạn sửa chữa.

Qua tìm hiểu tôi thấy đại đa số các em đọc ngọng là do các nguyên nhân sau:

+ Do môi trường sống( nhiều hơn)

+ Do bộ máy phát âm( ít hơn)

+ Do phương ngữ

Chính vì vậy để sửa cho các em đọc đúng người giáo viên phải kiên trì liên tục và có hệ thống. Thông thường các em rất ngại đọc vì sợ các bạn chê cười, chế nhạo cho nên người giáo viên phải giải toả tâm lí cho học sinh bằng lời lẽ của mình. Đồng thời phải giải thích cho học sinh cùng lớp để các em cùng giúp bạn sửa chữa.

    * Cách sửa đọc ngọng cho học sinh:

Trước hết giáo viên phải nắm chắc được nghĩa của các từ có phụ âm hay đọc ngọng  như l- n để định hình được lời nói và chữ viết. Giáo viên cần xem lại phương thức phát âm phụ âm đầu l- n và tự mỗi giáo viên phải luyện bằng thời gian dài  và phải kiên trì. Khi học sinh đọc lẫn các tiếng có phụ âm đầu là l, giáo viên dừng lại sửa cho các em bằng cách: hướng dẫn các em đọc đầu lưỡi hơi cong, luồng hơi đi ra bị cản  Ví dụ  những tiếng có phụ âm đầu n đọc đầu lưỡi thẳng, môi trề, bụng hơi hóp lại.

Những tiếng có âm quặt lưỡi như s – x; r – d- gi; tr- ch thì hướng dẫn các em nói tự nhiên cho hay, ( không cố gắng đọc nhấn). Nhưng trong Tiếng Việt có phụ âm đầu là r ( là phụ âm quặt lưỡi) thì chúng ta đọc không rung.

Ví dụ: Như từ: ra vào, rang lạc, rực rỡ, rung rinh  Giáo viên đọc rung những tiếng là tiếng nứơc ngoài , ví dụ: Ra đi ô,

Ngoài việc sửa chữa trong mỗi tiết Tập đọc và các môn học khác, thì cuối mỗi buổi học tôi còn giao những bài tập đọc nhỏ để học sinh tự luyện đọc ở nhà và về nhà đọc trước bài của ngày hôm sau. Hàng ngày kiểm tra về cách đọc của học sinh và nhận xét. Qúa trình này tôi thực hiện thường xuyên và  luôn khuyến khích các em.

  1. Luyện đọc ngắt giọng:

Qua điều tra thực tế tôi thấy ở học sinh lớp 2 nói chung chưa biết cách đọc ngắt giọng. Để học sinh biết ngắt giọng trong khi đọc, trước hết phải hướng dẫn các em đọc đúng. Từ việc đọc đúng đó sẽ hướng dẫn các em đọc đúng  cách ngắt giọng. Muốn đạt được điều đó cần phải dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc tuyệt đối không được tách từ ra làm hai, không tách từ chỉ loại với danh từ nó đi kèm  theo. Không tách giới từ với danh từ đi sau nó, không tách quan hệ từ  là với danh từ đi sau nó.

Ví dụ: Không được đọc ngắt giọng:

Tự xa/ xưa thủa nào

Trong rừng/ xanh sâu thẳm

( Gọi bạn- Tiếng Việt 2 tập 1 trang 28)

               Hay:

Con ve cũng/ mệt vì hè nắng oi

Mẹ là/ ngọn gió cảu con suốt đời.

( Mẹ- Tiếng Việt 2 tập 1 trang 101)

               Mà phải đọc:

Tự xa xưa / thủa nào

Trong rừng xanh / sâu thẳm

Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi…

Mẹ là ngọn gió / của con suốt đời.

Khi đọc các bài văn xuôi cũng vậy, việc ngắt giọng phải phù hợp với dấu câu. Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm, trùng hợp với danh giới ngữ đoạn.Trên thực tế học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng ở những câu văn dài có cấu trúc phức tạp hoặc mắc lỗi ngay ở câu ngắn. Nhưng các em chưa nắm được quan hệ ngữ pháp giữa các từ.

 

 

Ví dụ:                  Ông già bẻ bó đũa một/ cách dễ dàng

Dê trắng thương/ bạn quá

Bàn tay mẹ/ quạt mẹ đưa gió về

Vì vậy trước khi giảng một bài cụ thể giáo viên cần dự tính những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai để xác định điểm cần luyện ngắt giọng.

Ví dụ: Bài: Dậy sớm

Tinh mơ / em thức dậy

Rửa mặt / rồi đến trường

Núi giăng hàng / trước mặt

Phải lưu ý về cách ngắt nhịp vì theo dự tính học sinh sẽ ngắt

Tinh mơ em / thức dậy

Rửa mặt  rồi / đến trường

Núi giăng  / hàng trước mặt

– Trong khi đó xét về mặt ý nghĩa và lí thuyết trọng âm hai câu đầu ngắt nhịp 2/3 và  câu sau ngắt nhịp 3/2.

– Bên cạnh dạy học sinh ngắt giọng thể hiện đúng quan hệ ngữ nghĩa, ngữ pháp còn cần phải dạy ngắt giọng biểu cảm, nhằm gây ấn tượng về cảm xúc, nhằm tập trung sự chú ý của người nghe vào những từ ngữ mang trọng âm ngữ nghĩa.

Ví dụ: Đó là chỗ ngừng lâu hơn trong các câu thơ cuối bài:

Mẹ/  là ngọn gió của con suốt đời.

  1. Luyện đọc nhấn giọng:

Qua việc giảng dạy và thức tế trên lớp để giúp  học sinh đọc diễn cảm, đọc nhấn giọng người giáo viên cần phải thực hiện các nội dung sau:

Chuẩn bị kĩ cho việc dạy nhấn giọng

Tìm hiểu kĩ nội dung bài dạy để hiểu rõ và cảm thụ sâu sắc bài, giúp học sinh đọc có hiệu quả hơn.

Bài đọc trong sách giáo khoa của giáo viên cần nghi vắn tắt cách đọc, cách ngắt nhịp, cách nhấn giọng, sắc thái tình cảm đọc.

      Ví dụ : Bài: “Quà của Bố ( Tiếng Việt 2- tập 1 trang 106)

Đọc chậm rãi diễn tả hình ảnh về người bố, nhấn giọng ở các từ tả về món quà của người bố.

Bài: Thương ông ( Tiếng Việt 2- tập 1 trang 83)

ở bài này giáo viên hướng dẫn học sinh đều đọc ở nhịp 2/2, các câu thơ đọc giọng vui, cần ghi rõ từ nhấn mạnh ( hoặc gạch chân) những đoạn câu cần ghi trọng âm, kí hiệu ngắt ( / ), nghỉ ( // ), lên giọng ( ­ ), xuống giọng ( ¯ ), kéo dài ( ® ).

Trong từng bài giáo viên sẽ dự tính những lỗi học sinh sẽ mắc, giọng đọc cả bài, đoạn cần nhấn mạnh, tốc độ đọc.

Giáo viên cần chuẩn bị đồ dùng dạyhọc. Phương tiện trực quan chủ yếu trong giờ tập đọc là bài đọc và ngôn ngữ của giáo viên. Vì vậy, giáo viên cần sử dụng triệt để sách giáo khoa để học phân môn Tập đọc đạt kết quả tốt. Đồ dùng dạy học thông thường trong tiết Tập đọc là tranh mẫu  và một số vật thực mô hình để giảng từ và ý. Ngoài ra giáo viên cần chuẩn bị bảng phụ để ghi nội dung bài, ý, câu thơ cần luyện đọc. Tuy nhiên khi nên lớp còn có nhiều tình huống mới mẻ cần xử lý. Xong theo tôi sự chuẩn bị của giáo viên càng chu đáo thì nên lớp sẽ chủ động và sáng tạo hơn rất nhiều, giờ dạy sẽ đạt kết quả hơn mong đợi.

Hướng dẫn học sinh cảm thụ văn học, đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau . Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc của học sinh tốt hơn. Tuy nhiên , đối với học sinh lớp 2 đọc đúng, đọc diễn cảm chưa cao nên việc đọc đúng của học sinh cần chú trọng hơn. ở đây viêc đọc ngắt giọng, nhấn giọng được chú ý vào những học sinh đã đọc tốt và yêu cầu đọc ở cuối kì I. Khi học sinh đã đọc chuẩn, nhanh thì trong mỗi tiết học tôi không cảm thụ thay học sinh, mà khêu gợi vốn hiểu biết sẵn có của học sinh phát huy tư tưởng của các em để tái hiện được bức tranh mà tác giả vẽ lên bằng ngôn ngữ sinh động.

Ví dụ:  Bài: Sáng kiến của bé Hà ( Tiếng Việt 2 tập 1 trang 78)

+ Theo em bé Hà có những sáng kiến gì?

+ Hà đã tặng ông món quà gì?

+ Bé Hà trong truyện là một cô như thế nào?

 

                   Ví dụ : Bài: Bé Hoa – Tiếng việt 2 tập 1.

                               + Em biết những gì về gia đìng Hoa?

+ Em Nụ có những nét gì đáng yêu ?

+ Hoa đã làm gì giúp mẹ?

+ Ở lớp ta có những bạn nào có em bé?

+ Em thường làm gì thể hiện yêu quý em bé?

+ Không có em bé, em đã làm gì giúp bố mẹ?

+ Trong thư gửi bố, Hoa kể chuyện gì và mong ước điều gì?

+ Em hãy tưởng tượng xem bố sẽ nói gì với Hoa?

+ Theo em Hoa đáng yêu ở điểm nào?

+ Em học tập được ở Hoa điều gì?

– Với những câu hỏi trên cùng với những câu hỏi gợi ý nội dung bài học sinh sẽ tìm ra cách đọc thích hợp để diễn tả được cái không khí tưng bừng của cả gia đình bé Hà. Bên cạnh đó một trong những biện pháp để bồi dưỡng học sinh cảm thụ văn học là làm bài tập có hiệu quả . Để hướng tới đọc diễn cảm có sáng tạo, khi giảng bài trên lớp  giáo viên cần hướng dẫn luyện đọc diễn cảm. Tuy nhiên chính nội dung này đã quy định ngữ điệu của nó, nên không thể áp đặt sẵn giọng đọc của bài. Ngược lại điều này phải kết hợp luôn tự nhiên của học sinh đưa ra sau khi hiểu sâu sắc và biết diễn đạt dưới sự hướng dẫn của cô giáo. Để hình thành kĩ năng đọc diễn cảm học sinh cần phải:

+ Biết thở sâu chỗ ngừng nghỉ để lấy hơi đọc.

+ Rèn cường độ giọng đọc ( luyện đọc to)

+ Luyện đọc đúng

+ Đọc diễn cảm đúng.

– Trong khâu luyện đọc tôi tiến hành theo hai bước:

Luyện đọc theo câu, đoạn: Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu các câu, đoạn tôi tiến hành cho học sinh đọc ngay, điều này có tác dụng hình thành cách  đọc diễn cảm sát với nội dung bài vừa đề cập. Với những câu đoạn khó, giáo viên cần gợi ý cho học sinh xác định đọc câu, đoạn văn đó và yêu cầu học sinh đọc diễn cảm .

Ví dụ: Dùng một gạch xiên ( / ) đánh dấu ngắt; hai gạch xiên ( // )đánh dấu chỗ nghỉ và gạch chân từ ngữ cần nhấn giọng ở đoạn văn sau:

Ví dụ: Ngày xưa ở làng kia, có hai em bé ở với bà. Ba bà cháu rau cháo nuôi nhau tuy vất vả nhưng cảnh nhà lúc nào cũng đầm ấm.

(Bà cháu- Tiếng Việt 2- tập 1 trang 86)

– Với những câu có nhiều cách đọc, giáo viên nêu vấn đề cho nhiều em nêu ra cách đọc và giúp các em nhận ra cách đọc đúng , đọc diễn cảm ( đọc ngắt giọng, đọc nhấn giọng)

– Đọc toàn bài – đây là bước thực hiện sau khi học sinh đã đọc theo từng đoạn.Đọc toàn bài giúp học sinh cảm thụ một cách tổng thể sắc thái của nội dung tác phẩm. ở bước này giáo viên cần động viên khuyến khích cách đọc biểu lộ tình cảm riêng,tích cực trong đổi mới phương pháp giáo dục dạy học.

– Ngoài những biện pháp trên người giáo viên có thể kết hợp nội dung luyện đọc lồng ghép với trò chơi như: Thả thơ, truyền điện, chạy tiếp sức …

Trên đây là những biện pháp mà tôi đã thực hiện và đã có kết quả. Tuy nhiên dù học sinh có tiến bộ ở mức độ nào đi nữa thì sự khen ngợi, động viên kịp thời của người thầy, của bạn bè, của gia đình là vô cùng quan trọng. Vì nó phù hợp với tâm lí đặc điểm của các em.

  1. Luyện đọc diễn cảm:

– Muốn rèn cho các em đọc  đọc diễn cảm thì trước hết phải rèn cho các em đọc đúng, đọc ngắt giọng và nhấn giọng đã. Đọc diễn cảm là đọc văn bản sao cho giọng điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong văn bản, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung miêu tả trong văn bản. Đọc diễn cảm có nhiều mức độ:

  • Biết nhấn mạnh các từ quan trọng trong câu.

Ví dụ: Trong bài  Cây dừa -Tiếng Việt 2 tập 2 trang 88 có câu

Cây dừa xanh toả nhiều tàu

Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng.

– Khi đọc giáo viên phải lưu ý học sinh đọc nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm như: toả, dang tay, gật đầu.

– Biết thể hiện ngữ điệu( Sự thay đổi cao độ,  trường độ của giọng đọc) phù hợp với từng loại câu ( câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến).

– Biết đọc giọng phân biệt lời kể của tác giả và lời nhân vật.

– Biết đọc phân biệt lời của của các nhân vật.

Ví dụ : Trong bài Tập đọc “ Một trí khôn hơn trăm trí khôn” –  Tiếng Việt 2 tập 2 trang 31- Khi đọc giọng Chồn lúc hợm hĩnh, lúc thất vọng, cuối truyện lại rát chân thành. Còn giọng Gà Rừng lúc khiêm tốn, lúc bình tĩnh, tự tin.

– Biết thể hiện ngữ điệu phù hợp với tình huống miêu tả trong đoạn văn hoặc văn bản .

  1. Dạy thực nghiệm:

Vận dụng các biện pháp ở chương 3 tôi đã tiến hành dạy  thực nghiệm như sau:

 a.Nơi thực nghiệm

Như đã nêu ở phần đầu lớp tôi nghiên cứu chính là lớp tôi chọn dạy thực nghiệm:đó là đối tượng lớp 2A3 Trường tiểu học An Tảo

  b.Bài thực nghiệm: Tôi đã chọn bài: Mùa xuân đến.

Sở dĩ tôi mạnh dạn chọn bài này vì đây là bài văn xuôi, học sinh sẽ đọc hay sai cả phát âm , ngắt giọng và nhấn giọng. Song đây lại là bài văn rất hay bởi nội dung thật gần gũi với học sinh.

         –  Kiểm tra đánh giá

Trong quá trình dạy học tôi luôn áp dụng những biện pháp trên vào giảng dạy. Sau đó tôi dã tiến hành khảo sát học sinh như sau:

  • Kiểm tra miệng:
  1. Em hãy đọc đúng các từ sau:

Lên lớp, hoa lá,  hoa quả, nũng nịu.

Ăn lên làm ra, vững bền, tiến lên, ngũ quả

2.Em hãy đọc đúng đoạn văn  văn sau:

Chú chim sâu vui cùng vườn cây và các loài chim bạn. Nhưng trong trí nhớ thơ ngây của chú còn mãi hình ảnh một cánh hoa mận trắng, biết nở cuối đông để báo trước mùa xuân tới.

  Đáp án bài 2:  Chú chim sâu vui cùng vườn cây / và các loài chim bạn.// Nhưng trong trí nhớ thơ ngây của chú / còn mãi hình ảnh một cành hoa mận trắng, / biết nở cuối đông để báo trước mùa xuân tới.//

Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh theo nội dung trên và thấy rằng kết quả đọc đúng, đọc ngắt giọng và nhấn giọng dẫn đến dọc diễn cảm của học sinh được nâng cao nhiều so với kết quả đầu năm, số lỗi mà học sinh  mắc phải đã giảm đi nhiều nhất là sai về phụ âm đầu  l/ n.

 * Chất lượng của giờ dạy sau thực nghiệm như sau:

 

 

 

 

Lớp

 


số
Luyện phát âm  

Ngắt giọng

 

Nhấn giọng Đọc diễn cảm
Đúng Chưa đúng Đúng Chư­a đúng Đúng Chưa đúng Đúng Chưa đúng
SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL %
2A3 25 21 84 4 16 21 84 4 16 20 80 5 20 16 64 9 36

 

    –  Qua tiết dạy Tập đọc bài “ Mùa xuân đến nhằm rèn kĩ năng đọc đúng, đọc                 ngắt giọng, nhấn giọng  và đọc diễn cảm cho học sinh lớp 2, tôi thu được  một số kết quả sau:

+ Nâng cao được trình độ của giáo viên: Giáo viên phải dành nhiều thời gian nghiên cứu, tham khảo các tài liệu hướng dẫn, sách giáo khoa để dạy phù hợp với trình độ của học sinh. Đặc biệt trong khi dạy phân môn Tập đọc nói chung với các phân môn khác trong trường tiểu học nói chung, người giáo viên cần phải có tính kiên trì, tỉ mỉ, có cách giảng truyền cảm để hướng dẫn các em cặn kẽ từng bài, từng phân môn, thu hút sự hứng thú học tập của  học sinh. Qua đó giáo viên được tư duy khoa học, tạo niềm say mê đối với nghề nghiệp của người giáo viên.

+ Nâng cao chất lượng đọc cho học sinh. Dạy Tập đọc theo hướng này giúp các em khắc phục được tật nói ngọng, đọc thiếu dấu ở tỉnh Hưng Yên nói chung và trường Tiểu học An Tảo nói riêng. Đặc biệt tôi chú ý đến những học sinh còn phát âm sai, sai về ngắt nhịp,  đọc  chưa hay, chưa diễn cảm. Khuyến khích các em ôn luyện tích cực, kích  thích hứng thú học tập của các em. Như vậy các  em nắm được cách đọc, cách ngắt nhịp chính xác nên số học sinh đọc đúng, diễn cảm nhiều lên, số học sinh đọc sai lỗi ít đi rõ rệt. Các em thực sự có ý thức trong giờ học, hăng hái giơ tay để luyện đọc , để nêu kết quả việc làm của mình. Một số học sinh trung bình, nếu các em không có khả năng đọc hay thì các  em cũng có khả năng đọc đúng, đọc trôi chảy bài văn, bài thơ. Thông qua tiết dạy tôi thấy: Đây là một cách thức tích cực giúp cho học sinh say sưa và tự giác học tập, rèn cho các em có thói quen bạo dạn, tự nhiên thể hiện được tình cảm của mình trước tập thể. Do vậy biện pháp mà tôi đề xuất và áp dụng là phù hợp và đúng đắn. Tôi đã đạt kết quả như mong muốn. Chất lượng đọc đã tíên bộ rõ rệt so với đầu năm.

– Số học sinh đọc đúng tăng lên

– Số học sinh đọc ngọng ( rất ít)

– Số học sinh đọc ngắt giọng, nhấn giọng và diễn cảm tăng lên nhiều.

                                   

 


  1. PHẦN KẾT LUẬN

 

– Trong giao tiếp, trong học tập, trong công tác hàng ngày, con  người luôn phải học hỏi, tiếp thu nền văn minh của xã hội loài người. Vậy mà trong những kinh nghiệm cuộc sống, những thành tựu về văn hóa, khoa học, xã hội những tư tưởng tình cảm của các thế hệ đi trước và của xã hội đương thời thì phần lớn đơn vị ghi lại bằng chữ viết. Do vậy nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của nhân loại, không có niềm vui, hạnh phúc với đúng nghĩa của nó trong xã hội hiện tại. Chính vì vậy dạy học là một việc làm vô cùng quan trọng ở Tiểu học, trong các giờ học của các môn học nói chung và ở phân môn Tập đọc nói riêng việc đọc đúng, hay cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Bởi có đọc được thì học sinh mới có thể học được các môn học khác.

– Để học sinh có khả năng đọc đúng, hay, diễn cảm thì người giáo viên phải dạy cho học sinh đọc đúng, đọc diễn cảm ngay từ những lớp đầu cấp. Nhưng không phải bằng cách tăng thời gian luyện đọc mà coi trọng chất lượng đọc, mà phải xác định nội dung đọc, hiểu như nhau. Xác định được ngữ liệu nội dung từng đoạn của bài để xác định các yếu tố nghệ thuật và giá trị của chúng trong diễn đạt nội dung.  Giáo viên phải là người đọc mẫu chuẩn, hay. Dạy phải tỉ mỉ, kiên trì, nhẹ nhàng. Việc đưa ra hệ thống phiếu bài tập phải đảm bảo các yêu cầu, phải thực hiện được mục đích, học sinh phải chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và trong học tập. Khi giảng dạy cần chú ý đến nội dung bài tập đọc. Những bài có yếu tố văn cần có những bài tập giúp học sinh phát hiện ra những giá trị tác dụng của chúng trong tác phẩm.

– Đề tài  Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 giúp học sinh pháp âm đúng, chuẩn, đọc đúng ngữ liệu, ngắt giọng đúng và hay. Khi dạy giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và có đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên và phải chuẩn bị cả về đồ dùng dạy học phục vụ cho bài dạy đó thì tiết học mới có hiêụ quả cao. Mặc dù còn khó khăn trong trong quá trình thực hiện phương pháp nhưng nếu khắc phục được tôi nghĩ đây là một việc làm rất thiết thực trong quá trình nâng cao chất lượng đọc cho học sinh, góp phần lớn vào mục tiêu giáo dục tiểu học. Với đề  tài  Rèn kĩ năng đọc cho học sinh  lớp 2 tôi hi vọng rằng giúp các em nâng cao khả năng đọc của mình. Đồng thời thông qua đó góp phần nhỏ bé giúp bản thân cũng như đồng nghiệp có cái nhìn đúng hơn về vấn đề “ Đọc” để từ đó rèn cho các em biết: Đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm.